Tên phim: Canh Bạc (1991)
Đạo diễn:
Nguyễn Anh Tuấn
Năm phát
hành: 1991
Quốc
gia: Việt Nam
Diễn
viên: Thu Hà, Đơn Dương
Nội dung: Một cô sinh viên quyết tâm tìm cách làm giàu nhanh chóng bằng cách “dấn thân” vào môi trường của bọn buôn lậu đường rừng, với ảo tưởng ngây thơ và lòng tự tin đáng thương. Một anh lái xe – “dân làm ăn” được cảm hóa bởi tình yêu đối với cô sinh viên, nhưng sự nửa vời trong “cuộc hóa thân cuối cùng” đã buộc anh phải trả giá đắt và phải ân hận một cách đau đớn… Đường dây chính của truyện phim chỉ có vậy, xoay quanh vài bối cảnh đơn giản. Nó rất dễ tạo cho các tác giả phim đi tới chỗ minh họa cho một ý đồ tư tưởng áp đặt bằng những triết lý dễ dãi, khô cứng, hoặc đi vào khai thác những yếu tố “câu khách” rẻ tiền vẫn thường thấy. Đứng trước cái “hố thẳm” của hai lối làm phim quen thuộc này, đạo diễn trẻ Lưu Trọng Ninh đã chứng tỏ được bản lĩnh nghệ thuật vững vàng của mình. Với “Canh bạc”, cá tính sáng tạo của Lưu Trọng Ninh bộc lộ khá rõ nét, người xem có thể thấy rõ: đạo diễn là người nhìn cuộc sống bằng con mắt khá sành sỏi, tinh tường, và anh dám đi sâu vào những sự thật của lòng người. Anh ưa những gì gai góc, quyết liệt, không bằng lòng với hiện thực bề mặt một chiều, giản đơn. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công của phim là sự phát triển phức tạp của tính cách nhân vật đã quyết định các bước ngoặt của cốt truyện phim, chứ không phải là một sự gán ghép áp đặt chủ quan của tác giả. Ở đây cốt truyện phim được xây dựng khá công phu, có nhiều nút thắt phụ, cao trào phụ, để tới cao trào cuối cùng là “canh bạc” thực sự, các tâm lý, các số phận, cùng những điều tác giả muốn gửi gắm được chuyển hóa vào hình tượng một cách đích đáng nhất, có khả năng đánh mạnh vào sự thụ cảm của người xem… Những xung đột tâm lý được miêu tả khéo léo, hợp lôgic qua những cảnh phim được dựng theo lối tương phản có tính toán kĩ lưỡng là ưu điểm nổi bật của “Canh bạc”. Cần phải thừa nhận: các chi tiết đời thường được chọn lựa cắt, đối thoại giàu góc cạnh, chứa sức nổ của tâm lý song vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, tươi mát của cuộc sống là một trong những thế mạnh của đạo diễn trẻ này, và điều đó không phải là đã có nhiều trong các phim của ta. Một điều cũng khá lý thú ở “Canh bạc” là đạo diễn rất có ý thức đan xen những tình tiết tưởng như bâng quơ song lại giàu sức “cộng hưởng” với các chi tiết, tình tiết chính, tạo ra cảm giác vừa chân thực vừa “ lạ hóa”. “Lạ hóa” để tăng thêm sự chân thực và chân thực để vươn tới chiều sâu khái quát: đó chính là con đường lý tưởng để chinh phục nghệ thuật. Dữ dằn, quyết liệt, song “canh bạc” có không ít những đoạn trữ tình lắng đọng đáng quý. Ở trường đoạn phim trên sông, khi nhân vật Chiến (Đơn Dương) cất tiếng hát, ống kính máy quay lướt qua những gương mặt anh sinh viên, ông cán bộ, chị phụ nữ bế con… rồi lia ra toàn cảnh sông nước bát ngát, và người xem phải lặng đi giây lát, rồi rung động. Chính trong khung cảnh đó, nhân vật Mai (Thu Hà) đã thốt lên từ đáy lòng điều giản dị và tự nhiên: “Em yêu anh.” Trường đoạn mềm mại này thực ra là bước đệm khéo léo dể chuẩn bị dẫn phim tới cao trào đỉnh điểm”. Khi Mai thoát ra khỏi quán cơm một “tổ quỷ”, đạo diễn đã có một xử lý thú vị: có hai cô gái chạy ngược chiều đụng phải Mai – đó là cái đụng chạm hiền lành vô tội và đáng yêu biết bao, và sau đó cô gặp lại sự trong lành vui vẻ của môi trường sinh viên. Trong cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa các cô gái sinh viên ống kính máy quay đặt ở góc độ từ trên chúc xuống cũng góp phần gợi ở người xem một sự trìu mến, thương cảm, lo lắng… “Canh bạc” hầu như đã thoát khỏi cái nạn những lời lồng tiếng chói tai, đơn điệu, nặng về sân khấu hay kịch truyền thanh từng hành hạ người xem phim điện ảnh lâu nay. Trong “Canh bạc”, những lời nói nhiều giọng điệu, nhiều sắc độ khác nhau bên cạnh những tiếng động phim được xử lý thích đáng đã tạo ra sự chân thực và sức cảm nhiễm cần thiết của phim. Nhưng thành công đáng kể nhất của “Canh bạc” chính là “sức nặng” của các nhân vật cụ thể. Đạo diễn đã không biến nhân vật thành những “cái loa phát ngôn” cho mình. Người xem đã hồi hộp, theo dõi từng bước đi của Mai, Chiến, bày tỏ sự đồng cảm hay phê phán đối với họ. Và họ đáng yêu ngay trong cả những ấu trĩ, lầm lạc của mình. Còn các nhân vật phụ cũng được “vẽ” bằng những nét sắc nhọn, chính xác. Đặc biệt, nhân vật Mộc- một kẻ hung bạo từng phải đi tù hai mươi năm vì tội giết người cũng hàm ẩn một tính người cao cả – đó là một sáng tạo khá độc đáo của “Canh bạc”; và có thể mạnh dạn nói rằng đó là một nhân vật có xu hướng đạt tới giá trị cổ điển. Hệ thống tính cách chân thực của “Canh bạc” đã tạo nên động lực diễn tiến câu chuyện phim, quyết định số phận từng nhân vật và cũng quyết định luôn cả cái kết phim nữa! Khi phim tới đoạn: cô sinh viên Mai đứng trước nguy cơ bị lũ côn đồ làm nhục để trả giá cho sự “quỵt nợ” thua bạc của người yêu, Chiến thì đang hộc tốc lái xe dùng tiền đến chuộc Mai, còn lão Mộc thì băng đồi đi cứu Mai với thanh đao quắm trên tay, với tư cách là một người làm phim, tôi đã lo lắng thay không phải cho nhân vật mà cho Lưu Trọng Ninh. Tôi sợ rằng anh sẽ xử lý theo cách “có hậu” thông thường (mà ở dây thì sẽ thành ra tầm thường!) Nhưng kết phim đã xảy ra như nó cần phải xảy ra như thế: những ảo tưởng ngây ngô của Mai đã tan tành, và những giọt nước mắt ân hận muộn mạng của Chiến đã có sức cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với những ai đem những giá trị tốt đẹp của con người đặt lên trên chiếu bạc bẩn thỉu và làm vật “đối trọng” với đồng tiền! Với “Canh bạc”, hai diễn viên chính Thu Hà và Đơn Dương đã có “đất” để diễn, và có thể nói đây là hai vai diễn thành công nhất trong những vai họ đã đóng. Sự tiết chế cảm xúc trong khi diễn là điều khó khăn nhất đối với các diễn viên không chuyên lẫn chuyên nghiệp. Ở “canh bạc”, hai diễn viên chính đã thực hiện được điều này dưới sự chỉ đạo diễn xuất có kinh nghiệm. Điều đáng tiếc nhất của “Canh bạc” chính là ở chỗ: tác giả đã quá logic, quá tỉnh táo, quá chặt chẽ. Sự dồn nén cảm xúc trong phim và tính toán kỹ lưỡng đã tạo ra nghệ thuật ở nhiều trường đoạn; song đồng thời cũng làm hạn chế sự thụ cảm nghệ thuật ở không ít trường đoạn đáng lẽ người xem phải tiếp nhận bằng cảm xúc chứ không phải bẳng lý trí. Lẽ ra, ở những chỗ nhân vật không nên nói nhiều, hay thậm chí không cần nói, bởi tình huống của phim đã dẫn dắt người xem hiểu được, cảm được thì tác giả lại cho nhân vật nói hơi thừa (ví dụ Mai có hai ba lần nói câu “Tôi muốn sống cho ra con người”). Giá như đạo diễn “gọt” thoại cho đạt hơn nữa, phim sẽ hoàn chỉnh hơn. Những khuôn hình ngọt ngào, chỉnh chu của nhà quay phim bậc thẩy Trần Thế Dân không phải lúc nào cũng đạt tới hiệu quả nghệ thuật mong muốn – nhất là khi màn ảnh diễn tả cuộc đời lại cần tới sự thô mộc, phá phách, xộc xệch (mặc dù trong phim này, ông đã tự biến đổi phong cách riêng của mình rất nhiều để phù hợp với tính chất của phim). Từ “Chim vành khuyên”, “Chị Tư Hậu”, “Cánh đồng hoang”, “Về nơi gió cát” đến “Ngày về”, “Tướng về hưu”… và giờ đây là “Canh bạc”, phim truyện Việt Nam vẫn âm thầm khơi mạch vào cuộc sống thực sự của nhân dân mình. “Canh bạc” không những là một “hợp âm” hòa nhập với bản “tổng phổ” lớn đó, mà còn là một trong những tác phẩm điện ảnh có ý nghĩa mở đầu cho một giai đoạn mới gian nan nhưng cũng đầy hứa hẹn của phim truyện Việt Nam.
Mạng Xã Hội